Đại cương về Thần Khí Sắc

Đại cương về Thần Khí Sắc

6 10 99
Đại cương về Thần Khí Sắc 10 6 99
Thần, Khí, Sắc là ba ý niệm đặc biệt của tướng học Á Đông, rất khó lĩnh hội.

Đại cương về Thần Khí Sắc

Xưa nay các sách tướng đều nói đến Thần ,Khí ,Sắc đều cho rằng Thần, Khí, Sắc tuy phân ra làm ba nhưng thực ra là một. Về cách quan sát , người thường nói xem Thần tại mắt , khí ở nội tạng và phát thành âm thanh còn sắc ở ngoài da. Nhưng đó chỉ là một cách diễn tả khái quát không bao hàm đầy đủ mọi khía cạnh cần thiết .Đi sâu vào chi tiết, Thần , Khí , Sắc rất phức tạp, hàm hỗn và tương quan mật thiết .Tách rời Thần ,Khí ,Sắc ra từng phần riêng rẽ chì là một cách mổ xẻ máy móc để tiện trình bày mà thôi. Phần dẫn nhập này tóm tắt một cách khái quát những điểm trọng yếu trước khi cố gắng phân tích chi tiết từng thành tố Thần, Khí, Sắc trong tướng học . 

Sở dĩ tướng học Á đông xem Thần ,Khí ,Sắc là một vì đó là ba dạng thức khác nhau, nhìn dưới những khía cạnh khác nhau của dữ kiện duy nhất ,có tính cách siêu vật thể hơn là vật thể của con người.

Theo tướng học, chính dữ kiện đó đã tạo nên tinh hoa ,hoạt lực nội tại và các yếu tố tâm linh của con người. Người Á Đông, nói đúng ra là người Trung Hoa , vốn thấm nhuần truyền thuyết âm Dương Ngũ hành, dưới khía cạnh vật là một thứ khí trong khi kết hợp và biến hóa đã tạo ra vạn vật ,trong đó có con người . Nếu nói đến bản thể của khí trong con người là nói đến bản thể của khí âm Dương Ngũ hành trong vũ trụ đã hội nhập vào con người từ lúc thọ thai kết hình và cùng với nhục thể tạo thành một khối duy nhất đó là con người .

Như vậy ,trong con người ta có thể tạm nói khí là một thứ nhựa sống vô hình, nếu thể hiện qua đầu màu đuôi mắt thì gọi là thần hiện ra một nơi cố định trên làn da thành ra màu sắc thì gọi là sắc. Do đó, Thần ,Khí ,Sắc tuy ba nhưng xét về bản chất thật ra là một và có tính cách bất khả phân trong thực tế. Nói cách cụ thể hơn, Thần , Khí , Sắc có thể ví như ba trạng thái khác nhau như thể hơi ,thể lỏng ,thể đặc của nước :thể hơi là thần, thể lỏng là khí, thể đạc là sắc. Thể lỏng là thể thông thường căn bản của nước nhưng thể hơi và thể đặc không bao giờ hoàn toàn tách rời ra khỏi thể lỏng cũng như thần và sắc không bao giờ tách ra khỏi khí. Trong phần khí, ở khía cạnh cấu tạo (structual) nhìn dưới vị thể tĩnh nghĩa là khi con người bất động ,ta có thể quan sát được là khí mạnh hay yếu ,thanh hay trọc ,tốt hay xấu. Vì vậy ,nhiều dưới khía cạnh này, giữa khí và sắc có sự tương quan mật thiết trong tướng học người ta thường gộp chung thành một mà gọi là khí sắc với ngụ ý rằng trong việc quan sát khí thì khí chỉ được nói đến một cách gián tiếp còn sắc mới là trọng điểm .Chính vì thế mà sách Thủy kính tập gọi nó là khí sắc chi khí.

Trong vị thế động của con người, và dưới khía cạnh cơ năng(fone-tionnel), qua các tác động của thân hình, ta thấy có thể phát hiện những cá tính đặc biệt, những đặc điểm tâm hồn từng cá nhân. Dạng thức này của khí được mệnh danh là khí phách.

Tác giả Phạm Văn Viên của cuốn Thủy kính tập là người đầu tiên đặt ra danh từ khí phách để phân biệt với khí và sắc khi ông nói :"khí phách chi khí" và `khí sắc chi khí " .Trong tác phẩm của ông ,phần màu sắc của da bị xem nhẹ, còn phần thần lại được chú trọng rất nhiều và xem như là liên kết chặt chẽ với khí . Do đó, đôi khi ta gọi là khí phách, ta lại gọi chính danh hơn là tinh thần và khí phách, và để cho giả tiện, người ta gọi tắt là thần khí .Chính phần thần khí này mới là phần cao thâm của tướng lí Á Đông, nó giúp phân biệt được quý tiện hiền ngu,dự đoán được thành bại của con người trong tương lai cũng như mạng vận dài ngắn, thô bạo hay thanh khiết .

Từ trước đến nay ,thần khí vì tính cách hư hư thực thực của nó,vừa có bản chất là siêu hình vừa có bản chất là thực tại ,lại đòi hỏi người quan sát phải có một nhãn quang và thính giác bén nhạy đã được xếp vào loại học thuật bí truyền. Hơn nữa, cách diễn tả của người xưa lại rất hàm hỗn cố ý thần bí hóa và lại không được phổ biến sâu rộng như phần hình tướng ,nên từ đời Đông Hán đến gần đời Tống gần như bị thất truyền. Đến hai đời Minh, Thanh ,một vài cuốn sách tướng cổ điển có nhắc đến, nhưng không mô tả.

Mãi đến đời Thanh ,sách Thủy kính tập mới lại đề cập đến ,nhưng vẫn chưa rõ ràng cho lắm .Tuy vậy ,xét qua mớ tài liệu rời rạc tản mát trong kho tàng văn hóa tướng học còn lưu lại đến nay cộng thêm với một đoạn bình chú của tướng thứ ta có thể suy diễn ra được một phần lớn những điều cổ nhân muốn gói ghém qua ý niệm khí phách.Vì vậy ,trong đoạn cuối chương này, soạn giả đặc biệt dành ra một phần lớn để giới thiệu về phần tướng lí này của tướng học Á Đông để độc giả thưởng lãm.

THẦN Thử phác hoạ ý niệm "Thần":

"Thần" là một khái niệm căn bản của tướng học Á Đông , nhưng lại là một ý niệm rất khó diễn tả. Một phần vì người xưa học tướng theo lối tâm truyền , lấy trực giác và kinh nghiệm để lĩnh hội dần dần nên không cần và có thể nói là không thể diễn tả đầy đủ , một phần là nếu vài ba cuốn tướng học cổ diễn tả thì lối diễn tả đó vừa mơ hồ vừa huyền bí khiến người đọc bị hoang mang như lạc vào mê hồn trận . Thật sự , bản chất của thần không có gì là hoang đường, cũng không đến nỗi khó lĩnh hội cho lắm.

Đến giúp độc giả hiểu được ý niệm thần trong tướng lý Á Đông , soạn giả cố gắng phác họa lấy ý niệm thần theo một khảo hướng thực tiễn , ngược lại với lối diễn tả huyền bí của sách vở cổ điển bằng cách đưa ra nhiều ví dụ cụ thể trước khi đi vào phần định nghĩa lý thuyết.

Trong đời , hẳn mọi người đều có dịp quan sát lắm cặp mắt có nhãn lực đặc biệt khó quên .Nhãn lực đó khi đầy ác khiến kẻ nhìn phải khiếp sợ, có khi đầy vui tươi khiến kẻ nhìn quyến luyến . Những loại ánh mắt đó gọi là ánh mắt có thần. Ngược lại , cũng có nhiều đôi mắt ảo não, xa xăm, lờ đờ , thiếu sinh lực , hoặc không gây một cảm giác nào cho người quan sát : đó là những ánh mắt thiếu thần. Có những tư thế đi, đứng, ngồi chửng chạc , ổn trọng tự nhiên, tạo một cảm giác uy nghi khả kính : đó là những tác phong có thần.

Có nhiều giọng nói chanh chua gây tức giận , hoặc hùng hồn làm cho hân hoan phấn khởi , hoặc trong trẻo , êm dịu truyền cảm, khiến người nghe như bị thu hút bàng hoàng : đó là hợp âm thanh có thần . Một phụ nữ nhan sắc có hấp lực lôi cuốn sự chú mục không ngừng , khiến mọi người phải nhìn , nhìn hoài không chán , hoặc lúc nhìn mà động lòng ham muốn hay tấm tắc khen ngợi : đó là nhan sắc có thần.

Cũng có phụ nữ không mấy xinh đẹp nhưng cách đi, cách đứng , giọng nói , nụ cười đều toát ra vẻ thùy mị , đoan trang khiến con người sinh lòng cảm mến cũng là loại người có thần. Trong đoàn vũ công dang biểu diễn , có người diễn xuất nổi bật hơn hết khiến cho khán giả thấy được ý nghĩa của điệu vũ qua cử chỉ , vũ công đó có thần trong điệu vu.õ

Những cụ già dù gần đất xa trời , nhưng vẫn còn đầy vẻ quắc thước, nghiêm phong, dũng liệt là những kẻ có thần. Những trẻ em nhìn vào là thấy ngay tướng thông minh , đĩnh độ cũng là hạng người có thần.

Những ví dụ trên cho thấy thần được biểu lộ không những ở đôi mắt mà còn trên toàn thể khuôn mặt , trong phong thấy , giọng nói , nụ cười , trong thế cử động và cả trong thế bất động của con người nữa . Thần được phát lộ rõ rệt nhất lúc vui , lúc hứng , lúc giận , lúc sợ , lúc ham muốn , lúc cãi co . lúc thuyết phục , lúc đấu võ , lúc đánh kiếm.

Tóm lại , bất cứ lúc nào con người thoát khỏi trang thái bình thường mà toát ra những nét khác biệt kẻ phàm , trong ánh mắt , tướng đi , đứng , nằm , ngồi , cười thì đó vẫn là người có thần. Chính trong trạng thái bình thường ta thấy thần khó được lý hội nhất . Người xem tướng bao giờ cũng gặp phải đối tượng và trạng thái này.

Những ví dụ và sự diễn tả trên cho phép ta định nghĩa thần như sau: Thần là âm hưởng nhận thức được trên các nét tướng con người, là tiếng dội trong tâm hồn người xem tướng của những nét tướng quan sát được , chỉ những nét tướng nào tạo được những cảm giác , cảm tướng , cảm xúc , dư âm trong tâm tư người xem tướng thì mới là những nét tướng có thần . Trái lại , những nét tướng nào không có ý nghĩa , không gây một chấn động nào trong tâm tư , không có gì khác biệt với thiên hạ là những nét tướng thiếu thần. Những nét tướng lộ thần rõ rệt ( như sát khí trong ánh mắt , sự thô bạo của cử chỉ , tiếng nói lớn , giọng cười to ) thì bất cứ người phàm nào cũng quan sát được. Nhưng có những nét tướng không lộ thần một cách rỏ rệt đối với người phàm thì chỉ có nhà tướng thuật thượng thừa mới tra xét được thần khí mà thôi . Như thế, quên chuẩn nhận thức thần là trực giác riêng của thần tướng , Đây hiển nhiên là tiêu chuẩn hết sức chủ quan và cá biệt . Việc khảo sát thần sở dĩ khó là vì lí do , và sự khác nhau giữa các nhà tướng chính cũng vì nguyên nhân trên.

Đề định nghĩa giản dị hơn, thần là tinh thần. Đó là nguồn động lực tiềm ẩn trong con người , kết tinh từ sự ham muốn, từ ý chí, từ nghị lực, từ tình cảm, từ trí tuệ, từ huyết thống, từ văn hóa được phát lộ ra ngoài, ít hay nhiều , mạnh hoặc yếu .

Nó có thể tiềm ẩn hoặc phát lộ , khang kiện hay suy nhược. Xem thần là xem tinh thần, xem nội tâm, xem phần chân tướng bên trong qua những nét phát biểu ra ngoài. Thường khi cái bên ngoài không gói ghém hết cái sinh động và uẩn khúc bên trong .

Vì vậy, thuật xem tướng bao giờ cũng phải cố gắng thấu đáo nội tâm thì mới đạt tiêu chuẩn .Đó là lí do tại sao khảo sát thần phải bằng mắt chưa đủ mà phải dùng đến tâm để tìm hiểu tâm. Cái khó của việc quan sát Thần là ở chỗ đó . Cái vi điệu cũng từ đó mà ra.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
BẢNG BÁO GIÁ QUẢNG CÁO TRUYỀN HÌNH 2016